Rối loạn tăng sắc tố da mặt là một tình trạng bệnh lý hay gặp trên lâm sàng. Việc chẩn đoán bệnh khá phức tạp bởi đa phần các biểu hiện bên ngoài đều giống nhau. Vậy nên việc điều trị rối loạn sắc tố da mặt còn đang gặp nhiều khó khăn và có những hạn chế nhất định về hiệu quả. Hãy cùng phân biệt các dạng bệnh rối loạn sắc tố da mặt để chủ động phát hiện và thăm khám sớm bạn nhé.
Hầu hết các rối loạn sắc tố da mặt xuất hiện ở làn da tối màu, đặc biệt là những người có sử dụng chất làm trắng tại chỗ. Dựa trên vị trí phân bố của sắc tố melanin cũng như màu sắc của tổn thương trên lâm sàng và dưới ánh sáng đèn Wood chúng ta chia ra 3 loại tăng sắc tố chính:
? Tăng sắc tố màu nâu:
Tình trạng rối loạn sắc tố da mặt do tăng lượng melanin ở lớp tế bào đáy của thượng bì qua 2 cơ chế chính gồm: Tăng sản xuất melanin, số lượng tế bào hắc tố vẫn bình thường và Tăng số lượng tế bào hắc tố
Trên lâm sàng thường gặp các bệnh như rám má thượng bì, lentigines, tàn nhang…
? Tăng sắc tố màu xanh:
Tình trạng rối loạn sắc tố da mặt do tăng lượng melanin ở trung bì qua 3 cơ chế chính gồm: Tăng vận chuyển melanin từ thượng bì xuống trung bì, Tăng sản xuất melanin bởi tế bào hắc tố ở trung bì và Các sắc tố ngoại sinh lắng đọng ở trung bì
Trên lâm sàng thường gặp các bệnh như rám má trung bì, bớt Hori, tăng sắc tố Riehl, ochronosis ngoại sinh…
? Tăng sắc tố hỗn hợp:
Đây là dạng rối loạn sắc tố da mặt tổng hợp khi nó mang đặc điểm của 2 loại trên. Nhưng gặp chủ yếu vẫn là rám má hỗn hợp
Các bệnh rối loạn tăng sắc tố da mặt hay gặp
Rối loạn tăng sắc tố thượng bì
? Rám má thượng bì
Tình trạng tổn thương là dát tăng sắc tố màu nâu, ranh giới rõ, đối xứng 2 bên, hay gặp ở vùng má, trán và cằm. Dưới ánh sáng đèn Wood, tổn thương được quan sát rõ hơn. Bệnh hay gặp ở nữ giới từ 30-40 tuổi có làn da tối màu. Yếu tố gen (gia đình), yếu tố hormon và sự phơi nhiễm tia cực tím (tia UV) được coi là 3 nguyên nhân chính của rám má.
Tỉ lệ rám má thượng bì không nhiều nhưng đáp ứng tốt với các thuốc bôi tại chỗ và peel nông (lột mặt nông), ít trường hợp phải can thiệp bằng laser.
? Tàn nhang
Khởi phát từ nhỏ, chủ yếu người da sáng màu (châu Âu), bệnh mang yếu tố gen (gia đình). Tổn thương là dát tăng sắc tố màu vàng/ nâu/ đen kích thước nhỏ 2-4 mm, ranh giới rõ, đối xứng 2 bên ở vùng da hở. Điều trị bằng thuốc bôi ít có hiệu quả, cần sự can thiệp của laser thẩm mỹ để đạt hiệu quả tốt.
? Lentigines
Gồm 2 nhóm:
* Lentigines đơn thuần: dát nhỏ < 5mm, màu đậm hơn tàn nhang, không ưu thế vùng da hở
* Lentigines solar (đồi mồi): dát nâu đen ưu thế ở vùng da hở của người lớn tuổi.
Bệnh chịu ảnh hưởng lớn từ môi trường, đặc biệt là tia UV. Do đó việc sử dụng kem chống nắng là vô cùng quan trọng trong điều trị bệnh, kết hợp với laser thẩm mỹ.
Rối loạn tăng sắc tố trung bì
? Rám má trung bì
Hay gặp hơn rám má thượng bì. Tổn thương là dát tăng sắc tố màu nâu xám, ranh giới thường không rõ, đối xứng ở má, trán, cằm. Dưới ánh sáng đèn Wood, tổn thương mờ nhạt hơn. Nguyên nhân tương tự như rám má thượng bì. Điều trị rám má trung bì khó khăn hơn rám má thượng bì do kém đáp ứng với thuốc bôi tại chỗ. Chủ yếu cần sự can thiệp của laser.
? Bớt Hori
Là rối loạn tăng sắc tố da mặt hay gặp phải ở người phương Đông do hoạt hóa tế bào sắc tố bởi nhiều nguyên nhân khác nhau: tia UV, hormon, viêm…. Bệnh khởi phát sớm 94,5 % sau 11 tuổi. Tổn thương là dát màu nâu xám/ xanh xám dạng lốm đốm đối xứng 2 bên gò má. Điều trị thuốc bôi hầu như không có tác dụng. Laser đem lại hiệu quả cao, tỉ lệ tái phát thấp.
? Ochronosis ngoại sinh
là một rối loạn tăng sắc tố da mặt dễ mắc phải, liên quan đến thuốc làm trắng tại chỗ như hydroquinone, resorcinol, phenol hoặc thuốc tiêm (thuốc kháng sốt rét quinine). Ở giai đoạn điển hình, tổn thương là sẩn màu nâu đen, phân bố dạng chấm hoặc dạng trứng cá muối caviar, thường ở mặt trong má, vùng trán, thái dương, quanh mắt, ít hơn ở quanh miệng hay cằm.
Chẩn đoán xác định bằng sinh thiết tổn thương. Bệnh rất khó khăn trong điều trị, thuốc bôi tại chỗ dường như không đem lại hiệu quả. Laser cũng chỉ có tác dụng hạn chế, đôi khi phải điều trị nhiều lần.
? Tăng sắc tố Riehl
Là một dạng viêm da tiếp xúc do mỹ phẩm và chất. Dát tăng sắc tố màu nâu/ đen lan tỏa hoặc dạng mạng lưới, thường có tổn thương vệ tinh quanh nang lông, bong vảy nhẹ. Đôi khi dát đỏ và ngứa. Vị trí tổn thương khởi đầu ở vùng trán, thái dương, sau lan rộng ra khắp mặt. Điều trị có hiệu quả bằng laser QS Nd: YAG, IPL…
Rối loạn tăng sắc tố hỗn hợp
Trên lâm sàng chủ yếu gặp rám má hỗn hợp mang đặc điểm của 2 loại rám má thượng bì và trung bì. Tổn thương bao gồm dát nâu ranh giới rõ và dát xanh xám ranh giới không rõ, đối xứng 2 bên ở má, trán hoặc cằm. Điều trị rám má hỗn hợp khó hơn nhiều lần 2 loại rám má trên do phải kết hợp các phương pháp điều trị đơn lẻ.
Nhìn chung tình trạng rối loạn sắc tố thường xuất hiện nhiều hơn ở nữ giới. Bệnh không ảnh hưởng nhiều đến sức khỏe nhưng cần được kiểm soát và điều trị sớm để tránh ảnh hưởng đến thẩm mỹ của da. Tỷ lệ điều trị thành công rất cao và thường đạt từ 80-98% trong một liệu trình theo các bác sĩ da liễu thẩm mỹ yêu cầu.
– Điều hòa nội tiết ( sau đẻ, do uống thuốc tránh thai, rám má…)
– Không dùng hóa chất hay thuốc gây tăng sắc tố.
– Bổ sung các chất dinh dưỡng như : vitamin (PP, 3B, A…)
– Yếu tố vật lý (bảo vệ khi ra nắng ).
– Nhiễm trùng: dùng kháng sinh để diệt vi khuẩn hay nấm
– Bớt sắc tố hay u loại bỏ bằng phẫu thuật, laser, hóa chất….
B. Điều trị chiệu trứng
– Lý tưởng trung hòa sắc tố melanin: Hiện tại chưa có chất nào có thể trung hòa được sắc tố melanin
– Các thuốc khác: giảm số lượng tế bào sắc tố, giảm sản xuất melanin, giảm hoặc ngừng chuyển các hạt melanin từ tế bào sắc tố sang tế bào sừng do vậy sẽ làm giảm sắc tố .
– Hydroquinone
Hydroquinone rất giống cấu trúc của monobenzen, tồn tại dưới dạng tinh thể hình kim, trắng và nhỏ. Chất này tan hoàn toàn trong nước và cồn, có hằng số pKa = 9,96
Cấu trúc hóa học của Hydroquinone
Tính bền vững: Hydroquinone được bảo quản trong thùng kín, tránh ánh sáng. Khi để nó ra ngoài ánh sáng và không khí thì Hydroquinone bị sẫm màu và tương kỵ với kiềm, các muối của sắt và các chất oxy hóa.
*Dược động học của Hydroquinone
Hydroquinone có tác dụng ức chế cạnh tranh với men tyrosinase, mà men này lại là một enzym khoá trong quá trình sinh tổng hợp sắc tố melanin (hình 2). Donatien PD, Hunt G, Pieron C đã nghiên cứu tác dụng của Hydroquinone trên các tế bào sắc tố của chuột cống trong môi trường nuôi cấy, cho thấy thuốc hoàn toàn không ảnh hưởng tới hoạt động của tế bào.Trên thực tế Hydroquinone không có tác dụng tẩy màu ở da bình thường. Hydroquinone đã ức chế gián tiếp enzym tyrosinase qua hệ thống enzym của màng tế bào là thioredoxin reductase (TRR) và enzym oxidase thioredoxin. Sở dĩ Hydroquinone có tác dụng làm giảm sắc tố da, ngoài tác dụng ức chế enzym tyrosinase, nó còn tác dụng lên hệ thống hô hấp của tế bào trong ty thể và thậm chí nó còn tác dụng lên DNA. Hydroquinone ức chế hô hấp của tế bào do nó ức chế hoạt động của các enzym trong ty lạp thể, dẫn đến quá trình tổng hợp ATP cũng bị ảnh hưởng. Khi bôi thuốc lên da động vật cho thấy Hydroquinone tăng vận chuyển melanin khỏi TB sắc tố. Các nhà dược lý cho rằng Hydroquinone cũng có thể ngăn chặn quá trình hình thành melanin. Không giống monobenzen, Hydroquinone không gây ra sự phá hủy TB sắc tố, cũng như không làm mất sắc tố vĩnh viễn. Sự tẩy màu có thể xảy ra trong 1 – 4 tháng, khi đó melanin hiện hữu bị mất đi cùng với sự lột da, còn melanin mới được hình thành bị thải ra nhanh hơn. Quá trình làm mất sắc tố thường kéo dài từ 2 – 6 tháng sau khi không tiếp tục trị liệu bằng Hydroquinone.
Cơ chế tác dụng làm giảm sắc tố da của Hydroquinone
Hydroquinone ảnh hưởng cung cấp năng lượng cho TB sắc tố
*Chỉ định, chống chỉ định và tác dụng không mong muốn
– Chỉ định: trong các bệnh da t¨ng s¾c tè nh: tàn nhang, rám má, xạm da……
– Tác dụng không mong muốn:
+ Viêm da tiếp xúc dị ứng.
+ Viêm da tiếp xúc kích ứng.
+ Khô da.
+ Nếu dùng lâu dài có thể làm cho da trở thành màu nâu xám.
– Chống chỉ định và thận trọng khi dùng Hydroquinone
+ Không bôi Hydroquinone gần mắt, da bị xây xước, cháy nắng, da nhiễm khuẩn, không được dùng đồng thời với thuốc làm rụng lông.
+ Để hạn chế tác dụng không mong muốn của Hydroquinone trước khi bôi thuốc vào vùng da định điều trị, nên bôi thử vào 1 vùng da bình thường bất kỳ (thường là cẳng tay trước hay sau lưng), nếu không thấy có phản ứng gì mới chính thức bôi thuốc.
+ Khi bôi thuốc tránh tiếp xúc với ánh sáng.
+ Không dùng Hydroquinone cho những bệnh nhân có dị ứng với thuốc hay bất cứ thành phần nào của thuốc.
+ Cẩn thận đối với trẻ em: mức độ hiệu quả và an toàn đối với trẻ em dưới 13 tuổi chưa xác định được.
+ Phụ nữ có thai và cho con bú: các nghiên cứu sinh sản trên động vật chưa được thực hiện với Hydroquinone bôi tại chỗ. Không rõ Hydroquinone có gây hại đến phôi thai khi phụ nữ có thai bôi thuốc hoặc thuốc có hấp thu qua sữa hay không. Do đó chỉ được sử dụng cho phụ nữ có thai và cho con bú khi thật cần thiết.
*Liều lượng và cách dùng
Chỉ dùng đường bôi, không được uống.
– Liều lượng
+ Để tẩy sắc tố da, bôi 1 lớp mỏng kem hay dung dịch Hydroquinone và xoa mạnh lên vùng da bị bệnh 1 đến 2 lần mỗi ngày (buổi sáng và buổi tối).
+ Nếu sau 2 tháng dùng Hydroquinone để điều trị mà không thấy giảm sắc tố thì không dùng tiếp.
+ Khi đạt được mức độ giảm sắc tố mong muốn thì nên dùng Hydroquinone giảm liều để duy trì sự khử sắc tố, có thể bôi cách ngày trước khi dừng bôi.
Axit Retinoic
*Công thức hóa học và nguồn gốc
Retinoid là những chất có cấu trúc và tác dụng sinh học giống hoặc tương tự như vitamin A. Trong tự nhiên nó tồn tại dưới 3 dạng: là retinol (vitamin A gốc rượu), axit Retinoic (vitamin A gốc axit) và retinal (gốc aldehyt).
– Công thức hóa học:
Công thức hoá học của axit retinoic
Nguồn gốc:
+ Cơ thể chúng ta không tự tổng hợp được vitamin A, mà phải lấy từ bên ngoài vào qua hấp thu ở đường tiêu hóa dưới dạng vitamin A hoàn chỉnh. Vitamin A có nhiều trong dầu gan cá (nhất là cá thu) hay duới dạng tiền vitamin như các caroten (có nhiều trong gấc, bí đao, cà rốt….) sau đó thủy phân thành vitamin A. Dạng aldehyt và dạng axit chỉ xuất hiện trong cơ thể trong quá trình chuyển hóa vitamin A diễn ra. Axit Retinoic là chất tổng hợp được đưa vào cơ thể bằng đường uống hoặc bôi. Con người đã tổng hợp rất nhiều axit Retinoic và gồm 3 thế hệ, thế hệ 1 và 2 đã có trên thị trường, còn thế hệ 3 đang trong giai đoạn thử nghiệm.
+ Các axit Retinoic dùng tại chỗ hiện tại chủ yếu là ở thế hệ 1: tretinoin, isotretinoin, thuốc bôi có nồng độ từ 0,01% đến 0,1%. Nồng độ thấp 0,01% axit Retinoic được coi là các dạng mỹ phẩm. nồng độ 0,05% thường dùng để điều trị bệnh da tăng sắc tố.
*Dược động học của axit Retinoic
– Axit Retinoic bôi trên da làm gián đoạn sự vận chuyển những hạt sắc tố melanin đã được hình thành trong tế bào sắc tố sang tế bào tạo sừng, nhất là TB sừng lớp đáy và cận đáy góp phần làm giảm sắc tố da.
– Axit Retinoic còn có thể ngăn cản một phần các hạt melanin được hình thành trong TB sắc tố, chuyển sang các đại thực bào ở trung bì.
*Chỉ định, chống chỉ định, tác dụng không mong muốn của axit Retinoic
Chỉ định:
Các axit Retinoic dùng tại chỗ có chỉ định rất là rộng, nhiều tác giả cho rằng thuốc ngoài tác dụng chữa bệnh còn được coi như là một loại mỹ phẩm. Theo Fitzpatrick, Pathak dùng tại chỗ cho các bệnh dầy sừng: dầy sừng lòng bàn tay, bàn chân, bệnh vảy cá bẩm sinh… ¸ sừng dạng vảy nến, vảy nến, trứng cá (trừ trứng cá đỏ), các bệnh da có tăng sắc tố, thuốc được dùng chủ yếu dưới dạng kết hợp với 1 hoặc 2 thuốc khác, cũng có khi dùng đơn thuần nhưng rất hiếm. Ngoài ra còn dùng axit Retinoic bằng đường uống để chữa ung thư da.
Chống chỉ định:
+ Không dùng thuốc cho những trường hợp dị ứng với bất kỳ thành phần nào của thuốc.
+ Nên dùng thuốc vào ban đêm vì dễ bị kích ứng khi tiếp xúc với ánh nắng.
+ Không được dùng thuốc với các sản phẩm chứa hương liệu hay cồn.
+ Không được dùng thuốc cho thời kỳ có thai và cho con bú.
– Tác dụng không mong muốn: Thuốc có thể gây đỏ da bong vảy và ngứa nhẹ. Có một số ít bệnh nhân có thể có cảm giác rát bỏng kèm theo đỏ da, bong vảy da. Những triệu chứng này sẽ thuyên giảm nếu được bôi mỡ corticoid và hạn chế bộc lộ với ánh sáng mặt trời.
*Liều lượng và cách dùng:
Mọi trường hợp đều phải theo chỉ định của bác sỹ. Thông thường nên thoa thuốc hàng ngày, tốt nhất vào buổi tối, nửa tiếng trước khi đi ngủ. Da phải thật khô (thoa 15 phút sau khi làm vệ sinh da bằng sữa rửa mặt hay xà phòng).
Dạng kem: Lấy 1 lượng thuốc bằng hạt đậu lên da và xoa nhẹ nhàng trên thương tổn.
Dạng thuốc nước: Cho vài giọt thuốc vào lòng bàn tay, dùng đầu ngón tay chấm và thoa. Sau khi dùng cần rửa sạch tay.
*Kem chống nắng
Đối với tia tử ngoại tuỳ thuộc vào độ dài của bước sóng người ta chia làm 3 loại: UVA, UVB, UVC. Gần như 100% các tia UVC được hấp thu bởi tầng ozôn, 99% UVB và UVA cũng được hấp thu chỉ còn một phần rất nhỏ các tia này qua tầng khí quyển tác động đến con người. Cơ quan chịu tác dụng nhiều nhất và trực tiếp của tia tử ngoại là da. Có nhiều bệnh ngoài da liên quan đến ánh nắng kể cả các loại ung thư da. Kem chống nắng vừa có tác dụng hấp thu phần lớn các tia tử ngoại, vừa phản xạ lại ánh sáng trắng góp phần bảo vệ da. Kem chống nắng thường được dùng để bảo vệ da cho những ai phải bộc lộ nhiều với ánh nắng như các vận động viên chơi các môn thể thao ngoài trời, những người tắm nắng, công nhân ngoài giàn khoan…..Ngoài ra nó còn được dùng phối hợp với một số thuốc bôi khác để điều trị một số bệnh, trong đó có bệnh da t¨ng sắc tố.
Ví dụ: Spectra BAN Ultra 28.
Hoạt chất: Butyl methoxydibenzoylme thone:
Hấp thụ tia cực tím A có bước sóng 320 – 400 nm.
Hoạt chất: Padimate O hấp thụ tia cực tím B có bước sóng 290 – 320 nm và có tác dụng gián tiếp đến sự giảm sắc tố của da.
Laser (Hồng ngọc hay YAG) à Diệt tế bào sắc tố cả trung bì và thượng bì nhưng có một số trường hợp gây ra hiện tượng pháo hoa (chỗ trắng chỗ đen).
Siêu mài da làm cho các tế bào sừng chứa các hạt melanin và các bản sừng bong ra, do vậy làm giảm sắc tố da.
C. Laser trong điều trị một số bệnh da tăng sắc tố
Trong những năm gần đõy dựng laser trong điều trị bệnh da tăng sắc tố đó cho kết quả khả quan. Theo lý thuyết cuả Anderson và Parrish các sắc tố da có thể bị phá hủy một cách chọn lọc bằng các xung ánh sáng với bước sóng thích hợp và độ dài cuả xung đủ ngắn. Cũng theo lý thuyết này đốt nóng sắc tố da bằng tia laser có thời gian lâu hơn thời gian tỏa nhiệt, thì nhiệt sẽ lan tỏa gây ra thương tổn nhiệt cho các mô và như vậy làm tăng nguy cơ gây ra sẹo. Ngược lại nếu sử dụng tia laser đơn sắc có độ dài của xung ngắn hơn thời gian tỏa nhiệt thì sẽ không xảy ra hiện tượng khuyếch tán nhiệt và như vậy tổn thương sẽ chỉ khu trú ở thượng bì và sẽ không tạo ra sẹo. Melanin hấp thu các bước sóng cực tím, ánh sáng trắng, các sóng gần với tia cực tím cho tới bước sóng 1000nm do vậy các bước sóng này có thể được sử dụng để ly giải mô bằng phương pháp quang nhiệt chọn lọc. Các nhà khoa học đã biết được thời gian tỏa nhiệt của các hạt melanin là vào khoảng từ 50-500 nano giây. Vì vậy laser có bước sóng mà sắc tố melanin hấp thu mạnh và có thời gian xung dưới Micro giây là an toàn và hiệu quả để điều trị các bệnh da tăng sắc tố. Các laser đó bao gồm laser hồng ngọc có bước sóng 694nm, laser màu xanh có bước sóng 504-510 nm và laser – YAG có bước sóng 1064 nm và tần số đó có thể được nhân đôi tạo ra sóng ánh sáng xanh nhìn thấy (532 nm) có thời gian xung khoảng 10 nano giây.
• Chỉ định:
Nối ruồi do ánh nắng, bớt cà phê sữa, bớt mông cổ, bớt Ito, bớt Ota, rám má, tổn thương tăng sắc tố sau viêm, xạm da do nhiễm độc…..
Tế bào gốc trị nám làm trắng da Whitening Ampoule Larian với thành phần chính là Hydroquinone, Dna, Abutin, Vitamin C (hợp chất làm trắng da) và các thành phần chiết xuất từ thực vật, cùng Glutathione, Axit hyaluronic….. Tế bào gốc Whitening ampoule giúp nuôi dưỡng các tế bào khoẻ mạnh, tạo hàng rào vững chắc bảo vệ da và ức chế oxy hóa enzym tynosinse, ức chế sản sinh sắc tố nám melanin, giảm bức xạ đem lại làn da trắng sáng mịn màng và hiệu quả sẽ được kéo dài liên tục. Sản phẩm đã được chứng minh lâm sàng trên nhiều loại da kể cả da nhạy cảm nhất.
Chú ý: Tăng sắc tố ở trung bì hay hỗn hợp nếu điều trị hóa chất đơn thuần ít có kết quả, do vậy phải kết hợp các phương pháp: Siêu mài da, hóa chất + laser, lăn kim… + điều trị nguyên nhân mới có thể cho kết quả.